Chữ ký điện tử và chữ ký số luôn đóng vai trò quan trọng trong các giao dịch điện tử. Xuất phát từ tính chất ngày càng phổ biến của loại hình giao dịch này mà các quốc gia trên thế giới đều đưa ra những quy định cụ thể đối với chữ ký điện tử, chữ ký số và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý cho các giao dịch điện tử, có thể kể đến như: Luật Giao dịch điện tử năm 2005; Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ngày 27/9/2018 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số… Chính nhờ sự quan tâm này mà chữ ký điện tử cũng như chữ ký số đã có cơ sở và giá trị pháp lý khi được sử dụng trong các giao dịch điện tử.
a. Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử
Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử được quy định tại Điều 24, Luật Giao dịch điện tử như sau:
“1. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu chữ ký điện tử được sử dụng để ký thông điệp dữ liệu đó đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Phương pháp tạo chữ ký điện tử cho phép xác minh được người ký và chứng tỏ được sự chấp thuận của người ký đối với nội dung thông điệp dữ liệu;
b) Phương pháp đó là đủ tin cậy và phù hợp với mục đích mà theo đó thông điệp dữ liệu được tạo ra và gửi đi.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được đóng dấu của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký điện tử của cơ quan, tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 22 của Luật Giao dịch điện tử và chữ ký điện tử đó có chứng thực.”
Với những quy định rõ ràng và cụ thể như trên, doanh nghiệp có thể dựa vào những căn cứ pháp lý này để tiến hành và tuân thủ trong các giao dịch điện tử.
b. Giá trị pháp lý của chữ ký số
Theo quy định tại Điều 8 Nghị định 130/2018/NĐ-CP (Có hiệu lực thi hành từ 15/11/2018) thì giá trị pháp lý của chữ ký số cụ thể như sau:
– Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bằng chữ ký số và chữ ký số đó được đảm bảo an toàn theo quy định tại Điều 9 Nghị định này Nghị định 130/2018/NĐ-CP.
– Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được đóng dấu của cơ quan tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký số cơ quan, tổ chức và chữ ký số đó được đảm bảo an toàn theo quy định tại Điều 9 Nghị định 130/2018/NĐ-CP.
– Chữ ký số và chứng thư số nước ngoài được cấp giấy phép sử dụng tại Việt Nam theo quy định tại Chương V Nghị định này có giá trị pháp lý và hiệu lực như chữ ký số và chứng thư số do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng của Việt Nam cấp.
Để đảm bảo giá trị pháp lý, chữ ký số phải đáp ứng các điều kiện như sau:
Chữ ký số được tạo ra khi chứng thư số có hiệu lực và có thể kiểm tra được bằng khoá công khai ghi trên chứng thư số có hiệu lực đó.
Chữ ký số được tạo ra bằng “PRIVATE KEY” tương ứng với “PUBLIC KEY” ghi trên chứng thư số do tổ chức có thẩm quyền cấp.
Khóa bí mật chỉ thuộc sự kiểm soát của người ký tại thời điểm ký.
Khóa bí mật và nội dung thông điệp dữ liệu chỉ gắn duy nhất với người ký khi người đó ký số thông điệp dữ liệu.
Giao dịch điện tử, đặc biệt là giao dịch thương mại điện tử đã và đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đồng thời đây cũng là một trong các trụ cột của xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Việc các tổ chức quốc tế, các quốc gia trên thế giới đều có các quy định liên quan đến chữ ký điện tử và chữ ký số đã khẳng định vai trò của chúng trong các giao dịch điện tử nói chung và trong giao dịch thương mại điện tử nói riêng.